Nhà kinh tế học nổi tiếng Henrik Zeberg cảnh báo rằng, nền kinh tế toàn cầu đang ở rìa một cuộc suy thoái nghiêm trọng, cuộc suy thoái này có thể vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, thậm chí có thể so sánh với cuộc đại suy thoái những năm 1930. Phân tích cho thấy, ảo tưởng về sức mạnh kinh tế đã sụp đổ, các chỉ báo dẫn đầu và đồng bộ đều báo hiệu sự suy thoái sắp đến. Ông dự đoán tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng từ mức hiện tại 3-4% lên 6-8%, và cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải đối mặt với một cuộc suy thoái giảm phát trước tiên, tiếp theo là một sự tái cấu trúc đình trệ.
Henrik Zaeberberg cảnh báo: Suy thoái kinh tế vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
(Nguồn: Finbold)
Nhà kinh tế học nổi tiếng Henrik Zeberg đã bày tỏ trong bài viết trên Substack vào ngày 28 tháng 11 rằng, số lượng việc làm phi nông nghiệp của Mỹ đã giảm tốc, sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ đã giảm, sự gia tăng việc làm trước đó đã bị đánh giá quá cao, và sự hội tụ của những điểm yếu này xác nhận rằng suy thoái kinh tế mà mọi người mong đợi từ lâu đang bắt đầu. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng, sự sụp đổ kinh tế trong tương lai không chỉ vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, mà thậm chí có thể so sánh với cuộc Đại suy thoái vào những năm 1930.”
Cảnh báo của Zuckerberg không phải là vô căn cứ, mà dựa trên sự suy thoái toàn diện của nhiều chỉ số kinh tế dẫn đầu và đồng bộ. Các chỉ số dẫn đầu là những dữ liệu bắt đầu giảm trước khi suy thoái kinh tế thực sự xảy ra, chẳng hạn như đơn đặt hàng mới trong ngành sản xuất, giấy phép xây dựng và chỉ số niềm tin của người tiêu dùng. Các chỉ số đồng bộ là những dữ liệu dao động đồng bộ với hoạt động kinh tế, chẳng hạn như sản xuất công nghiệp, doanh số bán lẻ và dữ liệu việc làm. Khi cả hai loại chỉ số này cùng suy thoái, thường có nghĩa là suy thoái kinh tế đã không thể tránh khỏi.
So với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, môi trường kinh tế hiện tại có một số khác biệt quan trọng, những khác biệt này có thể làm cho cuộc suy thoái sắp tới nghiêm trọng hơn. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 chủ yếu xuất phát từ sự sụp đổ của hệ thống tài chính, đặc biệt là sự sụp đổ của thị trường thế chấp phụ. Các vấn đề lúc đó tập trung vào các ngân hàng và tổ chức tài chính, trong khi nền kinh tế thực tế tương đối khỏe mạnh. Chính phủ và ngân hàng trung ương có thể nhanh chóng ổn định tình hình thông qua các biện pháp kích thích tài chính quy mô lớn và chính sách nới lỏng tiền tệ.
Tuy nhiên, tình hình hiện tại phức tạp hơn. Nguyên nhân của cuộc suy thoái kinh tế lần này không chỉ nằm ở hệ thống tài chính, mà còn ở sự yếu kém toàn diện của nền kinh tế thực. Người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ đều gánh chịu mức nợ kỷ lục, trong khi lãi suất đang ở mức cao nhất trong nhiều thập kỷ. Điều này có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách sẽ có ít công cụ hơn để đối phó với cuộc suy thoái sắp tới. Không gian để cắt giảm lãi suất là hạn chế, và kích thích tài chính thì bị ảnh hưởng bởi mức nợ công khổng lồ.
Sự yếu kém của người tiêu dùng Mỹ trở thành điểm bùng phát suy thoái
Nhà kinh tế hàng đầu này chỉ ra rằng ngày càng nhiều dấu hiệu sụp đổ đến từ sự mong manh của người tiêu dùng Mỹ, vì người tiêu dùng Mỹ đã thúc đẩy khoảng 70% tăng trưởng GDP, và bây giờ họ đang thể hiện những dấu hiệu mong manh rõ rệt. Để đối phó với lạm phát cao nhất trong bốn mươi năm qua, các hộ gia đình đã cạn kiệt tiết kiệm trong thời gian đại dịch và gánh khoản nợ thẻ tín dụng vượt quá 1 nghìn tỷ USD, với lãi suất trên 20%.
Năm cảnh báo về cuộc khủng hoảng người tiêu dùng Mỹ
Tiết kiệm trong đại dịch đã cạn kiệt: Số tiền tiết kiệm dư thừa tích lũy từ các gói kích thích của chính phủ trong năm 2020-2021 đã cơ bản sử dụng hết.
Nợ thẻ tín dụng bùng nổ: Hơn 1 nghìn tỷ USD nợ và lãi suất vượt quá 20%, lập kỷ lục lịch sử
Tỷ lệ vỡ nợ tăng: Tỷ lệ vỡ nợ của khoản vay ô tô và thẻ tín dụng đã tăng lên đáng kể.
Tăng đơn xin phá sản: Số lượng đơn xin phá sản của cá nhân và gia đình tiếp tục tăng lên
Niềm tin tiêu dùng sụp đổ: Chỉ số niềm tin tiêu dùng giảm xuống mức tương tự như thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng 2008-2009.
Tỷ lệ vỡ nợ của khoản vay ô tô và thẻ tín dụng đang tăng lên, cộng với số lượng đơn xin phá sản gia tăng, đều cho thấy người tiêu dùng đang cắt giảm chi tiêu. Niềm tin của người tiêu dùng đã sụp đổ, giảm xuống mức tương tự như thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng 2008-2009, dẫn đến doanh số bán ô tô, sửa chữa nhà ở và tiêu dùng không thiết yếu giảm sút. Sự thu hẹp tiêu dùng này là chết người đối với nền kinh tế Mỹ, vốn rất phụ thuộc vào tiêu dùng.
Nợ thẻ tín dụng vượt 1 nghìn tỷ USD và lãi suất vượt 20% là một con số cực kỳ ấn tượng. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 2008, mặc dù lãi suất thẻ tín dụng cũng rất cao, nhưng tổng nợ tương đối thấp và tỷ lệ tiết kiệm của hộ gia đình tương đối lành mạnh. Tình hình hiện tại là nợ đạt kỷ lục mới, lãi suất đạt kỷ lục mới, trong khi tiết kiệm gần như cạn kiệt, và sự chèn ép ba lần này khiến người tiêu dùng gần như không có không gian đệm để ứng phó với cú sốc từ suy thoái kinh tế.
Sự giảm sút trong doanh số bán ô tô, cải tạo nhà cửa và tiêu dùng hàng hóa không thiết yếu là tín hiệu rõ ràng cho thấy người tiêu dùng bắt đầu thắt chặt chi tiêu. Trong kinh tế học, những điều này được gọi là “tiêu dùng co giãn”, khi áp lực tài chính của hộ gia đình tăng lên, những khoản chi này sẽ bị cắt giảm đầu tiên. Khi xu hướng này bắt đầu, sẽ hình thành một vòng luẩn quẩn: tiêu dùng giảm dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp giảm, doanh nghiệp sa thải dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng, và tỷ lệ thất nghiệp tăng lại càng kiềm chế tiêu dùng.
Vết nứt của thị trường lao động báo hiệu cơn sóng thất nghiệp sắp đến
Mặc dù thị trường lao động có vẻ như có sức bền, nhưng Zuckerberg chỉ ra rằng dữ liệu việc làm là chỉ báo chậm, và những vết nứt bắt đầu xuất hiện. Số lượng vị trí tuyển dụng giảm, kế hoạch tuyển dụng bị cắt giảm, các ngành công nghệ, bất động sản, tài chính và bán lẻ đã bắt đầu sa thải và đóng băng tuyển dụng. Trong khi đó, việc điều chỉnh dữ liệu việc làm hàng tháng cho thấy tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với báo cáo ban đầu, và việc làm tạm thời, một chỉ báo lao động hàng đầu, cũng đang giảm.
Zuckerberg dự đoán, khi cuộc suy thoái kinh tế diễn ra toàn diện, tỷ lệ thất nghiệp có thể từ mức hiện tại 3-4% tăng vọt lên 6-8%. Tốc độ và mức độ tăng vọt của tỷ lệ thất nghiệp này sẽ tương tự hoặc thậm chí vượt qua tình hình trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Trong giai đoạn 2008-2009, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã từ khoảng 5% tăng vọt lên 10%, dẫn đến hàng triệu hộ gia đình mất nguồn thu nhập.
Dữ liệu việc làm với đặc điểm là chỉ báo trễ có nghĩa là, khi tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng đáng kể, suy thoái kinh tế thường đã vào giai đoạn sâu. Các doanh nghiệp khi nền kinh tế bắt đầu xấu đi, trước tiên sẽ thực hiện các biện pháp cắt giảm chi tiêu vốn, đóng băng việc tuyển dụng, chỉ khi tình hình tiếp tục xấu đi mới bắt đầu sa thải. Do đó, khi tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng, thường thì đã quá muộn, và can thiệp chính sách khó có thể nhanh chóng đảo ngược tình hình.
Sự giảm sút việc làm của lao động tạm thời là một chỉ báo hàng đầu đặc biệt đáng chú ý. Các doanh nghiệp thường sẽ cắt giảm lao động tạm thời và hợp đồng trước khi chạm tới nhân viên chính thức. Khi việc làm của lao động tạm thời tiếp tục giảm, điều này thường báo hiệu rằng làn sóng sa thải nhân viên chính thức sắp đến. Xu hướng giảm sút việc làm của lao động tạm thời hiện nay đã kéo dài trong vài tháng, điều này củng cố dự đoán của Zuckerberg về làn sóng thất nghiệp sắp tới.
Giảm phát tính suy thoái và tái cấu trúc lạm phát là mối đe dọa kép
Tổng thể, Zuckerberg cho biết Mỹ có thể phải đối mặt với một cuộc suy thoái giảm phát đầu tiên, tiếp theo là một cuộc tái thiết đình trệ, điều này không chỉ có nghĩa là sự kết thúc của chu kỳ kinh doanh mà còn có thể có nghĩa là sự kết thúc của thời đại tiền tệ hiện tại. Suy thoái giảm phát là trạng thái giá cả giảm mạnh và hoạt động kinh tế co lại một cách nghiêm trọng, tình trạng này đã xảy ra trong thời kỳ Đại suy thoái vào những năm 1930. Đình trệ là trạng thái tồn tại đồng thời của lạm phát cao và sự đình trệ kinh tế, đã từng trải qua sự kết hợp đau đớn này vào những năm 1970.
Kịch bản khủng hoảng hai giai đoạn mà Zuckerberg dự đoán rất hiếm và nguy hiểm. Đầu tiên, giai đoạn suy thoái giảm phát sẽ được kích hoạt bởi sự sụp đổ của nhu cầu, khi người tiêu dùng và doanh nghiệp đồng thời cắt giảm chi tiêu, dẫn đến sự giảm giá, sự phá sản của các doanh nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Giai đoạn này tương tự như giai đoạn đầu sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nhưng quy mô có thể lớn hơn. Sau đó, để đối phó với giảm phát, chính phủ và ngân hàng trung ương sẽ buộc phải thực hiện các biện pháp kích thích tài chính và tiền tệ cực đoan, điều này có thể gây ra giai đoạn thứ hai của cuộc khủng hoảng đình trệ.
Tình huống đe dọa kép này khiến cho việc phản ứng chính sách trở nên vô cùng khó khăn. Để đối phó với Giảm phát cần chính sách mở rộng, trong khi đối phó với lạm phát lại cần chính sách thắt chặt, hai điều này mâu thuẫn nhau. Nếu các nhà hoạch định chính sách kích thích kinh tế quá mức trong giai đoạn giảm phát, có thể gieo mầm cho lạm phát tồi tệ sau này. Nhưng nếu kích thích không đủ, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài.
Trên thực tế, nhà kinh tế học này luôn cảnh báo về tình hình kinh tế, cho rằng hầu hết các tài sản đầu tư có thể sụp đổ. Tuy nhiên, trước khi các tài sản như cổ phiếu và tiền điện tử sụp đổ, các nhà đầu tư nên dự đoán rằng thị trường sẽ trải qua một giai đoạn hưng phấn, có thể đẩy giá lên mức cao kỷ lục, sau đó mới đến sự sụt giảm lớn của thị trường. Hiện tượng “cuộc vui trước khi sụp đổ” này đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử, tương tự như trước khi bong bóng internet nổ vào năm 2000 và trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Xem bản gốc
Trang này có thể chứa nội dung của bên thứ ba, được cung cấp chỉ nhằm mục đích thông tin (không phải là tuyên bố/bảo đảm) và không được coi là sự chứng thực cho quan điểm của Gate hoặc là lời khuyên về tài chính hoặc chuyên môn. Xem Tuyên bố từ chối trách nhiệm để biết chi tiết.
Nhà kinh tế học nổi tiếng: Đếm ngược đến sự sụp đổ thế kỷ, suy thoái kinh tế có thể vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
Nhà kinh tế học nổi tiếng Henrik Zeberg cảnh báo rằng, nền kinh tế toàn cầu đang ở rìa một cuộc suy thoái nghiêm trọng, cuộc suy thoái này có thể vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, thậm chí có thể so sánh với cuộc đại suy thoái những năm 1930. Phân tích cho thấy, ảo tưởng về sức mạnh kinh tế đã sụp đổ, các chỉ báo dẫn đầu và đồng bộ đều báo hiệu sự suy thoái sắp đến. Ông dự đoán tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng từ mức hiện tại 3-4% lên 6-8%, và cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải đối mặt với một cuộc suy thoái giảm phát trước tiên, tiếp theo là một sự tái cấu trúc đình trệ.
Henrik Zaeberberg cảnh báo: Suy thoái kinh tế vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
(Nguồn: Finbold)
Nhà kinh tế học nổi tiếng Henrik Zeberg đã bày tỏ trong bài viết trên Substack vào ngày 28 tháng 11 rằng, số lượng việc làm phi nông nghiệp của Mỹ đã giảm tốc, sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ đã giảm, sự gia tăng việc làm trước đó đã bị đánh giá quá cao, và sự hội tụ của những điểm yếu này xác nhận rằng suy thoái kinh tế mà mọi người mong đợi từ lâu đang bắt đầu. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng, sự sụp đổ kinh tế trong tương lai không chỉ vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, mà thậm chí có thể so sánh với cuộc Đại suy thoái vào những năm 1930.”
Cảnh báo của Zuckerberg không phải là vô căn cứ, mà dựa trên sự suy thoái toàn diện của nhiều chỉ số kinh tế dẫn đầu và đồng bộ. Các chỉ số dẫn đầu là những dữ liệu bắt đầu giảm trước khi suy thoái kinh tế thực sự xảy ra, chẳng hạn như đơn đặt hàng mới trong ngành sản xuất, giấy phép xây dựng và chỉ số niềm tin của người tiêu dùng. Các chỉ số đồng bộ là những dữ liệu dao động đồng bộ với hoạt động kinh tế, chẳng hạn như sản xuất công nghiệp, doanh số bán lẻ và dữ liệu việc làm. Khi cả hai loại chỉ số này cùng suy thoái, thường có nghĩa là suy thoái kinh tế đã không thể tránh khỏi.
So với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, môi trường kinh tế hiện tại có một số khác biệt quan trọng, những khác biệt này có thể làm cho cuộc suy thoái sắp tới nghiêm trọng hơn. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 chủ yếu xuất phát từ sự sụp đổ của hệ thống tài chính, đặc biệt là sự sụp đổ của thị trường thế chấp phụ. Các vấn đề lúc đó tập trung vào các ngân hàng và tổ chức tài chính, trong khi nền kinh tế thực tế tương đối khỏe mạnh. Chính phủ và ngân hàng trung ương có thể nhanh chóng ổn định tình hình thông qua các biện pháp kích thích tài chính quy mô lớn và chính sách nới lỏng tiền tệ.
Tuy nhiên, tình hình hiện tại phức tạp hơn. Nguyên nhân của cuộc suy thoái kinh tế lần này không chỉ nằm ở hệ thống tài chính, mà còn ở sự yếu kém toàn diện của nền kinh tế thực. Người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ đều gánh chịu mức nợ kỷ lục, trong khi lãi suất đang ở mức cao nhất trong nhiều thập kỷ. Điều này có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách sẽ có ít công cụ hơn để đối phó với cuộc suy thoái sắp tới. Không gian để cắt giảm lãi suất là hạn chế, và kích thích tài chính thì bị ảnh hưởng bởi mức nợ công khổng lồ.
Sự yếu kém của người tiêu dùng Mỹ trở thành điểm bùng phát suy thoái
Nhà kinh tế hàng đầu này chỉ ra rằng ngày càng nhiều dấu hiệu sụp đổ đến từ sự mong manh của người tiêu dùng Mỹ, vì người tiêu dùng Mỹ đã thúc đẩy khoảng 70% tăng trưởng GDP, và bây giờ họ đang thể hiện những dấu hiệu mong manh rõ rệt. Để đối phó với lạm phát cao nhất trong bốn mươi năm qua, các hộ gia đình đã cạn kiệt tiết kiệm trong thời gian đại dịch và gánh khoản nợ thẻ tín dụng vượt quá 1 nghìn tỷ USD, với lãi suất trên 20%.
Năm cảnh báo về cuộc khủng hoảng người tiêu dùng Mỹ
Tiết kiệm trong đại dịch đã cạn kiệt: Số tiền tiết kiệm dư thừa tích lũy từ các gói kích thích của chính phủ trong năm 2020-2021 đã cơ bản sử dụng hết.
Nợ thẻ tín dụng bùng nổ: Hơn 1 nghìn tỷ USD nợ và lãi suất vượt quá 20%, lập kỷ lục lịch sử
Tỷ lệ vỡ nợ tăng: Tỷ lệ vỡ nợ của khoản vay ô tô và thẻ tín dụng đã tăng lên đáng kể.
Tăng đơn xin phá sản: Số lượng đơn xin phá sản của cá nhân và gia đình tiếp tục tăng lên
Niềm tin tiêu dùng sụp đổ: Chỉ số niềm tin tiêu dùng giảm xuống mức tương tự như thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng 2008-2009.
Tỷ lệ vỡ nợ của khoản vay ô tô và thẻ tín dụng đang tăng lên, cộng với số lượng đơn xin phá sản gia tăng, đều cho thấy người tiêu dùng đang cắt giảm chi tiêu. Niềm tin của người tiêu dùng đã sụp đổ, giảm xuống mức tương tự như thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng 2008-2009, dẫn đến doanh số bán ô tô, sửa chữa nhà ở và tiêu dùng không thiết yếu giảm sút. Sự thu hẹp tiêu dùng này là chết người đối với nền kinh tế Mỹ, vốn rất phụ thuộc vào tiêu dùng.
Nợ thẻ tín dụng vượt 1 nghìn tỷ USD và lãi suất vượt 20% là một con số cực kỳ ấn tượng. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 2008, mặc dù lãi suất thẻ tín dụng cũng rất cao, nhưng tổng nợ tương đối thấp và tỷ lệ tiết kiệm của hộ gia đình tương đối lành mạnh. Tình hình hiện tại là nợ đạt kỷ lục mới, lãi suất đạt kỷ lục mới, trong khi tiết kiệm gần như cạn kiệt, và sự chèn ép ba lần này khiến người tiêu dùng gần như không có không gian đệm để ứng phó với cú sốc từ suy thoái kinh tế.
Sự giảm sút trong doanh số bán ô tô, cải tạo nhà cửa và tiêu dùng hàng hóa không thiết yếu là tín hiệu rõ ràng cho thấy người tiêu dùng bắt đầu thắt chặt chi tiêu. Trong kinh tế học, những điều này được gọi là “tiêu dùng co giãn”, khi áp lực tài chính của hộ gia đình tăng lên, những khoản chi này sẽ bị cắt giảm đầu tiên. Khi xu hướng này bắt đầu, sẽ hình thành một vòng luẩn quẩn: tiêu dùng giảm dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp giảm, doanh nghiệp sa thải dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng, và tỷ lệ thất nghiệp tăng lại càng kiềm chế tiêu dùng.
Vết nứt của thị trường lao động báo hiệu cơn sóng thất nghiệp sắp đến
Mặc dù thị trường lao động có vẻ như có sức bền, nhưng Zuckerberg chỉ ra rằng dữ liệu việc làm là chỉ báo chậm, và những vết nứt bắt đầu xuất hiện. Số lượng vị trí tuyển dụng giảm, kế hoạch tuyển dụng bị cắt giảm, các ngành công nghệ, bất động sản, tài chính và bán lẻ đã bắt đầu sa thải và đóng băng tuyển dụng. Trong khi đó, việc điều chỉnh dữ liệu việc làm hàng tháng cho thấy tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với báo cáo ban đầu, và việc làm tạm thời, một chỉ báo lao động hàng đầu, cũng đang giảm.
Zuckerberg dự đoán, khi cuộc suy thoái kinh tế diễn ra toàn diện, tỷ lệ thất nghiệp có thể từ mức hiện tại 3-4% tăng vọt lên 6-8%. Tốc độ và mức độ tăng vọt của tỷ lệ thất nghiệp này sẽ tương tự hoặc thậm chí vượt qua tình hình trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Trong giai đoạn 2008-2009, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã từ khoảng 5% tăng vọt lên 10%, dẫn đến hàng triệu hộ gia đình mất nguồn thu nhập.
Dữ liệu việc làm với đặc điểm là chỉ báo trễ có nghĩa là, khi tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng đáng kể, suy thoái kinh tế thường đã vào giai đoạn sâu. Các doanh nghiệp khi nền kinh tế bắt đầu xấu đi, trước tiên sẽ thực hiện các biện pháp cắt giảm chi tiêu vốn, đóng băng việc tuyển dụng, chỉ khi tình hình tiếp tục xấu đi mới bắt đầu sa thải. Do đó, khi tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng, thường thì đã quá muộn, và can thiệp chính sách khó có thể nhanh chóng đảo ngược tình hình.
Sự giảm sút việc làm của lao động tạm thời là một chỉ báo hàng đầu đặc biệt đáng chú ý. Các doanh nghiệp thường sẽ cắt giảm lao động tạm thời và hợp đồng trước khi chạm tới nhân viên chính thức. Khi việc làm của lao động tạm thời tiếp tục giảm, điều này thường báo hiệu rằng làn sóng sa thải nhân viên chính thức sắp đến. Xu hướng giảm sút việc làm của lao động tạm thời hiện nay đã kéo dài trong vài tháng, điều này củng cố dự đoán của Zuckerberg về làn sóng thất nghiệp sắp tới.
Giảm phát tính suy thoái và tái cấu trúc lạm phát là mối đe dọa kép
Tổng thể, Zuckerberg cho biết Mỹ có thể phải đối mặt với một cuộc suy thoái giảm phát đầu tiên, tiếp theo là một cuộc tái thiết đình trệ, điều này không chỉ có nghĩa là sự kết thúc của chu kỳ kinh doanh mà còn có thể có nghĩa là sự kết thúc của thời đại tiền tệ hiện tại. Suy thoái giảm phát là trạng thái giá cả giảm mạnh và hoạt động kinh tế co lại một cách nghiêm trọng, tình trạng này đã xảy ra trong thời kỳ Đại suy thoái vào những năm 1930. Đình trệ là trạng thái tồn tại đồng thời của lạm phát cao và sự đình trệ kinh tế, đã từng trải qua sự kết hợp đau đớn này vào những năm 1970.
Kịch bản khủng hoảng hai giai đoạn mà Zuckerberg dự đoán rất hiếm và nguy hiểm. Đầu tiên, giai đoạn suy thoái giảm phát sẽ được kích hoạt bởi sự sụp đổ của nhu cầu, khi người tiêu dùng và doanh nghiệp đồng thời cắt giảm chi tiêu, dẫn đến sự giảm giá, sự phá sản của các doanh nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Giai đoạn này tương tự như giai đoạn đầu sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nhưng quy mô có thể lớn hơn. Sau đó, để đối phó với giảm phát, chính phủ và ngân hàng trung ương sẽ buộc phải thực hiện các biện pháp kích thích tài chính và tiền tệ cực đoan, điều này có thể gây ra giai đoạn thứ hai của cuộc khủng hoảng đình trệ.
Tình huống đe dọa kép này khiến cho việc phản ứng chính sách trở nên vô cùng khó khăn. Để đối phó với Giảm phát cần chính sách mở rộng, trong khi đối phó với lạm phát lại cần chính sách thắt chặt, hai điều này mâu thuẫn nhau. Nếu các nhà hoạch định chính sách kích thích kinh tế quá mức trong giai đoạn giảm phát, có thể gieo mầm cho lạm phát tồi tệ sau này. Nhưng nếu kích thích không đủ, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài.
Trên thực tế, nhà kinh tế học này luôn cảnh báo về tình hình kinh tế, cho rằng hầu hết các tài sản đầu tư có thể sụp đổ. Tuy nhiên, trước khi các tài sản như cổ phiếu và tiền điện tử sụp đổ, các nhà đầu tư nên dự đoán rằng thị trường sẽ trải qua một giai đoạn hưng phấn, có thể đẩy giá lên mức cao kỷ lục, sau đó mới đến sự sụt giảm lớn của thị trường. Hiện tượng “cuộc vui trước khi sụp đổ” này đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử, tương tự như trước khi bong bóng internet nổ vào năm 2000 và trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.